Liên kết chuỗi: Chìa khóa nâng tầm giá trị và thương hiệu gạo Việt

Liên kết chuỗi sản xuất lúa gạo không chỉ bảo đảm chất lượng mà còn là giải pháp then chốt để xây dựng thương hiệu gạo Việt bền vững.

Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này.

Thúc đẩy liên kết, nâng tầm giá trị gạo Việt

- Ông đánh giá như thế nào về vai trò Nghị định 98/2018/NĐ-CP trong việc thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân?

Ông Phạm Thái Bình: Nghị định 98, với mục tiêu khuyến khích phát triển liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trong sản xuất nông nghiệp, được đánh giá là một cơ sở pháp lý mang tính đột phá, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam.

10 tháng năm 2025, xuất khẩu gạo đạt 7,2 triệu tấn, kim ngạch 3,7 tỷ USD, giá bình quân 511 USD/tấn. Ảnh minh họa

10 tháng năm 2025, xuất khẩu gạo đạt 7,2 triệu tấn, kim ngạch 3,7 tỷ USD, giá bình quân 511 USD/tấn. Ảnh minh họa

Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực lúa gạo, liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ giữ vai trò then chốt. Sự gắn kết này không chỉ kết nối sản xuất với thị trường mà còn thúc đẩy mô hình sản xuất dựa trên nhu cầu thực tế của người tiêu dùng. Chính vì vậy, liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp góp phần nâng cao phát triển bền vững của ngành lúa gạo nói riêng và nông nghiệp Việt Nam nói chung, đồng thời là giải pháp quan trọng để gia tăng giá trị và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp.

Sau hơn 6 năm triển khai, Nghị định 98 đã tạo ra nhiều bước đột phá trong việc thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trên hầu hết các lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo. Thực tế cho thấy, ngành lúa gạo Việt Nam đã có những chuyển biến ấn tượng: nếu trước đây xuất khẩu chủ yếu dựa trên số lượng, thì nay sản phẩm gạo đã đáp ứng tốt hơn các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn thực phẩm và chất lượng cao, minh chứng rõ ràng cho hiệu quả của mô hình liên kết mà Nghị định 98 thúc đẩy.

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân vẫn còn nhiều “nút thắt”. Một trong những khó khăn lớn nhất là tính pháp lý để đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ và khả năng mở rộng vùng nguyên liệu còn hạn chế, khiến diện tích liên kết thực tế chưa đạt kỳ vọng. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ cơ chế, chính sách và các giải pháp từ cơ quan quản lý nhà nước, vốn đóng vai trò quyết định trong việc tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy liên kết bền vững.

Thực tế cho thấy, cả doanh nghiệp và nông dân đều mong muốn hợp tác. Nông dân muốn sản xuất theo kế hoạch, còn doanh nghiệp cần đảm bảo tiêu thụ sản phẩm ổn định. Khi mọi hoạt động được triển khai theo kế hoạch, giá trị tạo ra sẽ cao hơn và hiệu quả bền vững hơn. Liên kết không chỉ tăng thu nhập cho nông dân mà còn gia tăng giá trị và lợi nhuận cho doanh nghiệp.

Vấn đề lớn hiện nay là tại sao mô hình này vẫn chưa thể nhân rộng. Nhiều liên kết bị phá vỡ ngay từ khâu phê duyệt dự án hoặc vùng nguyên liệu của cơ quan quản lý nhà nước, chứ không phải do doanh nghiệp hay nông dân. Một liên kết chỉ ổn định và bền vững khi vùng nguyên liệu hoặc dự án liên kết được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt rõ ràng, nhờ đó khu vực sản xuất không bị thay đổi đột ngột theo các mục đích khác từ chính quyền địa phương. Nếu không có dự án được phê duyệt, vùng nguyên liệu có thể bị điều chỉnh bất cứ lúc nào, dẫn đến chuỗi liên kết dễ dàng bị đứt gãy trước khi hợp tác lâu dài kịp triển khai.

Đây là những vấn đề then chốt mà Nghị định 98 cần tiếp tục tháo gỡ, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho các liên kết bền vững và hiệu quả hơn trong tương lai.

- Theo ông, cơ quan quản lý cần đảm bảo những quyền hạn gì để các dự án liên kết được triển khai bền vững và hiệu quả?

Ông Phạm Thái Bình: Nghị định 98 hướng tới việc liên kết sản xuất với tiêu thụ, xây dựng vùng nguyên liệu quy mô lớn, chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất mang tính hàng hóa và có thương hiệu cao của Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu này, dự án liên kết cần được cơ quan quản lý nhà nước phê duyệt. Việc phê duyệt không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho sự hợp tác giữa doanh nghiệp và nông dân mà còn giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư.

Đối với doanh nghiệp, một trong những yếu tố quan trọng nhất là sự hiện diện của cơ quan quản lý nhà nước đủ thẩm quyền, đủ quyền hạn để các dự án liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân được triển khai bền vững. Cơ quan này không cần lớn hay phức tạp, nhưng phải đảm bảo quyền hạn rõ ràng và đồng bộ.

Khi sản xuất mở rộng quy mô, vấn đề vốn trở thành yếu tố then chốt, thường liên quan đến ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Nếu dự án không được phê duyệt, ngân hàng sẽ không có cơ sở để xem xét hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp và nông dân.

Do đó, tính pháp lý và sự phê duyệt dự án từ các cấp có thẩm quyền, có thể là ban chỉ đạo dự án, UBND tỉnh hoặc Sở Nông nghiệp và Môi trường là vô cùng quan trọng. Cần có quy định rõ ràng, đồng bộ trên toàn quốc để đảm bảo các liên kết được thực hiện nhất quán, tránh tình trạng mỗi địa phương phê duyệt theo cách khác nhau, dẫn đến hiệu quả triển khai thấp và thiếu tính bền vững.

Vùng nguyên liệu chuẩn - nền tảng cho thương hiệu gạo Việt

- Ông đánh giá thế nào về hiệu quả xuất khẩu gạo phát thải thấp sang Nhật Bản và tác động của mô hình liên kết đến thương hiệu gạo Việt Nam?

Ông Phạm Thái Bình: Đề án Thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn giai đoạn 2022–2025 được triển khai theo hai giai đoạn. Giai đoạn 1 (2022–2023) tập trung thí điểm xây dựng các vùng nguyên liệu đạt chuẩn, đồng thời tổ chức tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện đề án. Giai đoạn 2 (2024–2025) hoàn thiện các nội dung về khuyến nông, chuyển giao khoa học công nghệ cho hợp tác xã (HTX) và người dân, củng cố năng lực cho HTX và thành viên, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý vùng nguyên liệu, phát triển khuyến nông cộng đồng, truyền thông và triển khai các chính sách về tín dụng, bảo hiểm, cũng như liên kết theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP.

Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An. Ảnh: Khương Lực

Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An. Ảnh: Khương Lực

Nhờ các đề án này, các mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân được hình thành và phát triển ổn định. Điển hình như tại Trung An, vùng nguyên liệu mà doanh nghiệp triển khai gần 4 năm với quy mô lên đến hàng nghìn ha, cùng với sự hỗ trợ của Nghị định 98 và Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao phát thải thấp, đã nâng tầm hiệu quả liên kết. Nhờ đó, tính pháp lý và hiệu quả của các mô hình liên kết ngày càng được củng cố, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa chất lượng cao tại Việt Nam.

Hiện nay, Trung An triển khai mô hình liên kết với nông dân một cách bài bản. Công ty cung cấp đầy đủ vật tư đầu vào, nông dân chỉ cần tập trung sản xuất theo quy trình chuẩn do công ty đề ra. Mô hình liên kết này đã giúp Trung An trở thành một trong những doanh nghiệp đầu tiên xuất khẩu 500 tấn gạo phát thải thấp sang thị trường Nhật Bản, minh chứng rõ ràng cho hiệu quả của liên kết sản xuất. Khi Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao được triển khai rộng rãi, ngành lúa gạo Việt Nam được kỳ vọng tăng trưởng mạnh mẽ, nâng cao giá trị và uy tín trên thị trường quốc tế.

- Theo ông, yếu tố nào quan trọng nhất để nâng cao giá trị và thương hiệu lúa gạo Việt Nam?

Ông Phạm Thái Bình: Tất cả giá trị của lúa gạo, từ xây dựng thương hiệu đến nâng cao uy tín sản phẩm, đều xuất phát từ những cánh đồng liên kết. Không thể đạt được những giá trị này nếu sản xuất manh mún, nhỏ lẻ. Khi nông dân và doanh nghiệp liên kết, sản xuất theo quy trình chuẩn của doanh nghiệp, giá trị và thương hiệu sản phẩm mới được nâng cao. Ngược lại, sản xuất tự phát, nhỏ lẻ sẽ không thể nâng tầm giá trị và uy tín của gạo Việt Nam.

Hiện nay, việc nhân rộng các chuỗi liên kết và vùng nguyên liệu đạt chuẩn không gặp trở ngại từ nông dân hay doanh nghiệp, bởi hai bên đều sẵn sàng tham gia. Vướng mắc lớn nhất lại nằm ở các quy định và thủ tục của cơ quan quản lý nhà nước. Chẳng hạn, doanh nghiệp sẵn sàng lập dự án liên kết, nhưng nếu không được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, doanh nghiệp sẽ không dám đầu tư do thiếu cơ sở pháp lý. Đây là một vấn đề đơn giản nhưng vẫn chưa được giải quyết triệt để, gây hạn chế cho việc mở rộng liên kết và phát triển bền vững.

Xin cảm ơn ông!

Từ khóa : xuất khẩu gạo, thương hiệu gạo Việt Nam, thương hiệu gạo, liên kết chuỗi